Chùa Lý Hòa hôm nay

Chùa Lý Hòa hiện nay cơ bản xong phần thô và đang hoàn thiện dần phần tinh. Để hoàn thiện một công trình tâm linh dù có muốn nhanh cũng không được vì có nhiều họa triết cần có thợ chuyên nghiệp lành nghề am hiểu về hội họa và phật giáo để khắc họa nên những đường nét  tinh sảo  bảo đảm về thẩm mĩ lẫn chất lượng lâu bền của công trình. 
Để xem tất cả hình ảnh chụp được ở chùa Lý Hòa ngày 27/1/2014 xin bấm vào đây
Với phương châm nhanh, bền, đẹp trong thời gian qua gia đình bác Phan Hải cũng như các đội thợ làm việc miệt mài tốn rất nhiều kinh phí và công sức, cho đến thời điểm hiện nay phần thô của Chùa Lý Hòa đã xong và đang dần hoàn thiện các đường nét hoa văn của chùa, các tượng Phật đã đưa về an vị hầu như đầy đủ, điều đặc biệt nhân dịp tết nguyên đán Giáp Ngọ gia đình bác Phan Hải đã chuyển về 2 tượng phật ( Ông tổ bồ đề đạt ma  và Phật bà nghìn tay nghìn mắt).
Để bạn đọc biết thêm về Tượng Phật Bà Nghìn Mắt Nghìn Tay  và Ông Tổ Đề Đạt Ma mới yên vị tại chùa Lý Hòa BBT trích dẫn một số nguồn trên Internet sau:

- Phật Bà Nghìn Mắt Nghìn Tay theo  tác giả Chu Mạnh Cường : "Một trong những tượng Phật bà được tạc thờ nhiều nhất là Quan Thế Âm Bồ tát (theo tiếng Phạn là Avalokitesvara, nghĩa là Người lắng nghe những tiếng kêu than ở đời để giang tay cứu giúp). Quan Âm là hiện sinh của lòng từ bi, hỷ xả, công đức vô lượng. Phật bà có tới 39 thân pháp và hàng trăm hóa thân khi cứu độ người đời. Trong nghệ thuật điêu khắc cổ truyền có rất nhiều cách để thể hiện tượng Phật bà, cùng một hình tượng Quan Âm song có tới sáu loại tượng như Thánh Quán Âm, Quan Âm Nam Hải, Mã Đầu Quan Âm, Quan Âm Chuẩn Đề, Quan Âm Tống Tử và Quan Âm Toạ Sơn. Hình tượng Quan Âm xuất hiện nhiều nhất là Quan Âm Nam Hải ngự trên đài sen, được một con quỷ đội lên từ biển.
Đỉnh cao của dạng tượng này là Quan Âm Nghìn mắt nghìn tay, với ý nghĩa Phật bà có nghìn phép biến hóa như nghìn con mắt, nghìn cánh tay để theo dõi cứu vớt muôn loài (trong thực tế trên tượng nhiều khi chưa có đủ số lượng là 1000 con mắt, 1000 cánh tay). Với đủ hạnh nguyện thành Phật, Quan Âm từ bi chưa đi vào cõi Niết bàn, mà quay lại dân gian để cứu vớt người dân, Ngài lúc biến thành người này, lúc hóa thành người kia và dùng phép tu tam muội Samadhi, tu thiền để tâm trí không xao động, phân thân ở mọi nơi lắng nghe lời kêu khổ mà phổ độ chúng sinh. Nói cách khác, tượng Phật bà Quan Âm Nghìn mắt nghìn tay là ý tưởng của nhân dân về những người tốt, đức độ, dám hy sinh thân mình để cứu vớt, giúp đỡ người khác."
 
- Tượng phật  Tổ Bồ Đề Đạt Ma ( theoTrích dịch trong quyển: Sử 33 Vị Tổ Thiền Tông Ấn Hoa của Hòa Thượng Thích Thanh Từ soạn tại Tu Viện Chơn Không vào năm 1971)Ngài dòng Sát Đế Lợi ở Nam Ấn (Nam Thiên Trúc – Dekhan), cha tên là Hương Chí làm vua ở nước này.  Vua Hương Chí có ba người con trai. Người con lớn tên Nguyệt Tịnh Đa La, thích tu pháp Niệm Phật Tam Muội;  Người con kế của vua tên Công Đức Đa La, thích tu bố thí làm phước; Ngài là vương tử thứ ba tên Bồ Đề Đa La, thích thông lý Phật, lấy việc xuất thế làm trên.  Thuở nhỏ, Ngài đã có chí siêu việt và đặc tài hùng biện.

 Nhơn vua Hương Chí thỉnh Tổ Bát Nhã Đa La (Prajnatara) vào cung để cúng dường, Ngài có duyên gặp Tổ.  Qua cuộc nghiệm vấn về hạt châu, Tổ đã biết Ngài là người siêu quần bạt tục sẽ kế thừa Tổ vị.
Sau khi vua cha băng hà, Ngài quyết chí xuất gia cầu xin Tổ Bát Nhã độ làm đệ tử.  Tổ hoan hỷ làm lễ thế phát và truyền cụ-túc giới.  Tổ bảo Ngài:
- Hoàng tử đối với các pháp đã được thông suốt, nên nay đổi hiệu là Bồ Đề Đạt Ma. 
Từ đây, ngài luôn hầu hạ bên thầy.
Một hôm, Tổ gọi Ngài đến truyền pháp và dặn dò:
- Ông tạm giáo hóa ở nước này, sau sang Trung Hoa mới thật là nhân duyên lớn.  Song, đợi ta diệt độ khoảng sáu mươi năm sau sẽ đi.  Nếu ông đi sớm, e có việc không tốt.
Những điều kiết hung về sự giáo hóa ở Trung Hoa sau này, Ngài đều cầu xin Tổ chỉ dạy.  Tổ dùng những lời sấm ký tiên đoán sự kiết hung vận số Phật pháp ở Trung Hoa, nói có hơn mười bài kệ.
Tổ tịch rồi, Ngài vẫn ở tại nước nhà giáo hóa.  Người huynh đệ đồng sư với Ngài là Phật-Đại-Tiên cùng chung sức giáo hóa.  Thời nhơn gọi hai Ngài là "Mở hai cửa Cam Lồ".  Song, sau môn đồ của Ngài Phật-Đại-Tiên lại chia làm sáu tông: Hữu Tướng – Vô Tướng - Định Huệ - Giới Hạnh – Vô Đắc - Tịch Tịnh, đua nhau truyền bá.  Ngài thấy sự chia ly ấy, ngại cho chánh pháp suy vi, vì thế, ngài dùng phương tiện cảm hóa họ hồi đầu quy về chánh pháp.


















Vua Nguyệt Tịnh băng hà, con vua là Thái-tử Dị Kiến nối ngôi.  Dị Kiến lên ngôi không bao lâu lại tin theo tà thuyết bài bác Phật giáo.  Ngài lại sai đệ tử là Ba La Đề đến cung vua để nhiếp hóa.  Sau khi cải tà quy chánh, vua Dị Kiến hỏi ra mới biết Ba La Đề là đệ tử của chú mình.  Nhà vua cho người thỉnh Ngài về cung giáo hóa.
Về cung giáo hóa một thời gian, Ngài thấy cơ duyên sang Trung Hoa đã đến, bèn đem lời huyền ký của Tổ Bát Nhã Đa La thuật lại cho vua biết.  Vua không còn lời gì dám ngăn cản, đành sắm một chiếc thuyền buôn, cho thủy thủ đưa Ngài sang Trung Hoa.  Vua và quần thần đưa Ngài ra tới cửa biển.
Ngài ở trên thuyền gần ngót ba năm, thuyền mới cặp bến Quảng Châu, nhằm đời Lương, niên hiệu Phổ Thông năm đầu (520 sau kỷ nguyên chung), ngày 21 tháng 9 năm Canh Tý.  Thích-Sử tỉnh này ra đón tiến Ngài, đồng thời dâng sớ về triều tâu vua Luơng Võ Đế.  Vua được sớ, liền sai sứ lãnh chiếu chỉ đến thỉnh Ngài về Kim Lăng (Kinh Đô nhà Lương).  Trong cuộc diện kiến, vua Võ Đế hỏi:
-Trẩm từ lên ngôi đến nay thường cất chùa chép kinh, độ Tăng ni, không biết bao nhiêu, vậy có công đức gì chăng ?
Ngài đáp:
- Đều không có công đức.
-Tại sao không có công đức ?
- Bởi vì những việc ấy là nhơn hữu lậu, chỉ có quả báo nhỏ ở cõi người và cõi trời, như bóng theo hình, tuy có mà chẳng phải thật.
-Thế nào là công đức chơn thật ?
- Trí thanh tịnh tròn mầu, thể tự không lặng, công đức như thế chẳng do thế gian mà cầu.
- Thế nào là Thánh Đế Nghĩa Thứ Nhất ?
- Rỗng rang không thánh
- Đối diện với trẩm là ai ?
- Không biết.
Vua Lương Võ Đế không lãng ngộ được, lui về nghỉ.  Ngài biết căn cơ chẳng hợp, tạm lưu lại đây ít hôm.
Đến ngài 19, Ngài bỏ vua Lương, lén sang sông qua Giang Bắc.  Ngài nhập cảnh nước Ngụy, đi đến Lạc Dương, nhằm đời Hậu Ngụy, vua Hiếu Minh Đế, nên hiệu Chánh Quang năm đầu (520 sau năm kỷ nguyên chung) ngày 23 tháng 11.
Ngài dừng trụ tại chùa Thiếu Lâm ở Trung Sơn, trọn ngày ngồi xây mặt vào vách im lặng.  Tăng chúng đều không hiểu được.  Người đời gọi Ngài là "Thầy Bà-La-Môn nhìn vách" (Bích Quán Bà La Môn).
Có một vị tăng tên Thần Quang, học thông các sách, giỏi lý diệu huyền, nghe danh Ngài, tìm đến yết kiến.  Thần Quang đã đủ lễ nghi mà Ngài vẫn ngồi yên lặng ngó vách không màng đến.  Quang nghĩ: " Người xưa cầu đạo, chẳng tiếc thân mạng, nay ta chưa được một trong muôn phần của các ngài."  Hôm ấy, nhằm tiết mùa đông (mùng 9 tháng chạp), ban đêm tuyết rơi lả tả, Thần Quang vẫn đứng yên ngoài tuyết, chấp tay hướng về Ngài.  Đến sáng, tuyết ngập khỏi đầu gối, mà gương mặt Thần Quang vẫn thản nhiên.  Ngài thấy thế, thương tình xây ra hỏi:
- Ông đứng suốt đêm trong tuyết, ý muốn cầu việc gì ?
Thần Quang thưa:
- Cuối mong Hòa Thượng từ bi mở cửa cam lộ, rộng độ chúng con.
- Diệu đạo vô thượng của chư Phật, dù nhiều kiếp tinh tấn, hay làm được việc khó làm, hay nhẫn được việc khó nhẫn, còn không thể đến thay ! Huống là dùng chút công lao nhỏ này mà cầu được pháp chân thừa ?
Thần Quang nghe dạy bèn lén lấy đao chặt cánh tay trái để trước Ngài để tỏ lòng thiết tha cầu đạo.  Ngài biết đây là pháp khí liền dạy:
- Chư Phật  lúc ban đầu cầu đạo, vì pháp quên thân, nay ông chặt cánh tay để trước ta, tâm cầu đạo như vậy cũng khá.
- Pháp ấn của chư Phật con có thể được nghe chăng ?
- Pháp ấn của chư Phật không phải từ người khác mà đưọc.
- Tâm con chưa an, xin thầy dạy pháp an tâm.
- Ông đem tâm ra đây, ta an cho.
- Con tìm tâm không thể được.
- Ta đã an tâm cho ông rồi
Thần Quang nhơn đây được khế ngộ.  Tổ Bồ Đề Đạt Ma liền đổi tên Thần Quang là Huệ Khả.
Từ đó, kẻ tăng người tục đua nhau đến yết kiến Ngài, tiếng tăm vang dậy.  Vua Hiếu Minh Đế của nước Ngụy sai sứ ba phen thỉnh Ngài, Ngài đều từ chối.  Nhà vua càng kính trọng, sai sứ đem lễ vật đến cúng dường: Một cây tích trượng, hai y kim tuyến, bình bát, v.v...Ngài từ khước nhiều lần, nhưng nhà vua cố quyết cúng dường, rốt cuộc Ngài phải nhận. 
Mở cửa phương tiện, Ngài có dùng bốn hạnh để giáo hóa môn đồ:
1. Báo Oán Hạnh
2. Tùy Duyên Hạnh
3. Vô Sở Cầu Hạnh
4. Xứng Pháp Hạnh
Ở Trung Hoa gần chín năm, Ngài thấy cơ duyên đã đến, liền gọi đồ chúng hỏi:
- Giờ ta trở về sắp đến.  Các vị mỗi người nên nói chỗ sở đắc của mình.
Đạo Phó ra thưa:
- Theo chỗ thấy của con, chẳng chấp văn tự, chẳng lìa văn tự, đây là dụng của Đạo
Ngài bảo:
- Ông được phần da của ta
Tỳ Khưu Ni hiệu Tổng Trì ra thưa:
- Nay chỗ hiểu của con, như Tổ A Nan thấy nước Phật A Súc, chỉ thấy một lần, không còn thấy lại.
Ngài bảo:
- Bà được phần thịt của ta.
Đạo Dục bước ra thưa:
- Bốn Đại vốn không, năm ấm chẳng có.  Chỗ thấy của con không một pháp có thể được.
Ngài bảo:
- Ông được phần xương của ta.
Huệ Khả bước ra đảnh lễ Ngài, rồi lui trở lại đứng yên lặng.
Ngài bảo:
- Ông được phần tủy của ta.
Ngài gọi Huệ Khả đến dặn dò:
- Xưa Như Lai đem đại pháp nhãn tạng trao cho Tổ Ca Diếp, lần lượt truyền đến ta.  Nay ta đem trao lại cho ông.  Ông phải truyền trao không để cho dứt mất.  Cùng trao cho ông Tăng-già-lê và bát báu, để làm pháp tín.  Mỗi thứ tiêu biểu cho mỗi việc, ông nên biết.
Huệ Khả thưa:
- Xin thầy từ bi chỉ dạy mọi việc.
Ngài dạy:
- Trong truyền tâm ấn để khế hợp với tâm chứng, ngoài trao ca-sa để định tông chỉ.  Đời sau nhiều người cạnh tranh nghi ngờ, họ nói: "Ta là người Ấn, ông là người Hoa, căn cứ vào đâu mà được pháp, lấy cái gì để minh chứng ?".  Ông gìn giữ pháp y này, nếu gặp tai nạn, ông đem ra làm biểu tín, thì sự giáo hóa không bị trở ngại.  Hai trăm năm sau khi ta diệt độ, y pháp này dừng lại không truyền, vì lúc đó, Phật pháp rất thạnh hành.  Chính khi đó, người biết đạo thật nhiều, người hành đạo quá ít.  Người nói lý thì nhiều, người ngộ lý thì ít.  Tuy nhiên, người thầm thông lặng chứng có ngàn vạn.  Ông cố gắng xiển dương, chớ khinh người chưa ngộ.  Nghe ta nói kệ
Ngô bổn lai tư độ                    ( Ta sang đến cõi này)
Truyền Pháp cứu mê tình        (Truyền Pháp cứu mê tình)
Nhất Hoa khai Ngũ Diệp        (Một hoa nở năm cánh)
Kết quả tự nhiên thành            (Nụ trái tự nhiên thành)
Ngài lại bảo:
- Ta có bộ kinh Lăng Già bốn quyển, là Phật nói tột pháp yếu, cũng giúp cho chúng sanh mở, bày, ngộ, nhập kho tri kiến Phật, nay ta trao luôn cho ông.  Ta từ Nam Ấn sang đây, năm phen bị thuốc độc mà không chết, vì thấy xứ này tuy có khí đại thừa mà chưa ứng hiệp, nên ta lặng lẽ ngồi lâu chờ đợi.  Nay đã truyền trao xong, đã có thĩ ắt phải có chung vậy.
Xong rồi, Ngài cùng đồ chúng đi đến võ môn ở chùa Thiên Thánh, dừng lại ba hôm.  Quan Thái Thú thành này tên là Dương Huyễn Chi là người sùng mộ Phật Pháp.  Nghe tin Ngài đến, liền tới đảnh lễ.  Ông hỏi:
- Thầy ở Ấn Độ được kế thừa làm Tổ, vậy thế nào là Tổ, xin thầy dạy cho ?
Ngài đáp:
- Rõ được tâm tông của Phật, không lầm một mảy, hạnh và giải hợp nhau, gọi đó là Tổ.
- Chỉ một nghĩa này hay còn nghĩa nào khác ?
- Cần rõ tâm người, biết rành xưa nay, chẳng chán có không, cũng chẳng cố chấp, chẳng hiền chẳng ngu, không mê không ngộ.  Nếu hay hiểu như thế, cũng gọi là Tổ.
Huyễn Chi lại thưa:
- Đệ tử vì nghiệp thế tục, ít gặp được tri thức, trí nhỏ bị che lấp không thể thấy đạo.  Cúi xin thầy chỉ dạy, con phải noi theo đạo quả nào ?  Dùng tâm gì được gần với Phật Tổ ?
Ngài vì ông nói kệ:
Diệc bất đổ ác nhi sinh hiềm
Diệc bất quán thiện nhi cần thố
Diệc bất xả trí nhi cận ngu
Diệc bất phao mê nhi tựu ngộ
Đạt đại đạo hề quá lượng
Thông Phật tâm hề xuất độ
Bất dữ phàm thánh đồng triền
Siêu nhiên danh chi viết Tổ
Tạm dịch:
Cũng đừng thấy dữ mà sanh chê
Cũng đừng thấy lành mà ái mộ
Cũng đừng bỏ trí mà gần ngu
Cũng đừng ném mê mà về ngộ
Đạt Đạo lớn chừ quá lượng
Thông Phật tâm chừ vô kể
Chẳng cùng phàm thánh đồng vai
Vượt lên, gọi đó là Tổ
Huyễn Chi nghe dạy, hoan hỷ đảnh lễ, lại thưa:
- Xin thầy chớ vội tạ thế, để làm phước lợi cho quần sanh.
Ngài bảo:
- Đời mạt pháp, kẻ tệ ác quá nhiều, dù ta còn ở lại lâu e chẳng lợi ích, mà thêm tai nạn, làm tăng trưởng tội ác cho người.
- Từ thầy đến đây, ai thường hại thầy, xin thầy chỉ họ, con sẽ sắp xếp.
- Nói ra ắt có tổn hại, ta nên đi vậy.  Đâu cam hại người để mình được vui.
Huyễn Chi nài nỉ thưa:
- Con không hại người, chỉ muốn biết để đề phòng đó thôi.
Ngài bất đắc dĩ nói bài kệ:
Giang Tra phân ngọc lãng
Quản cự khai kim tỏa
Ngũ khẩu tương cộng hành
Cửu thập vô bỉ ngã
tạm dịch
Thuyền con rẽ sóng ngọc
Đuốc soi mở khóa vàng
Năm miệng, đồng cùng đi
Chín, mười không ta người
Huyễn Chi nghe rồi ghi nhớ, đảnh lễ Ngài, rồi lui ra.
Ở đây đúng ba hôm, Ngài ngồi an nhiên thị tịch.  Hôm ấy là ngày mùng Chín tháng Mười năm Bính Thìn, nhằm niên hiệu Đại Thông năm thứ hai nhà Lương (529 kỷ nguyên chung).  Đến ngày 18 tháng chạp năm này, làm lễ đưa nhục thân của Ngài nhập tháp tại chùa Định Lâm, núi Hùng Nhĩ.
Ba năm sau khi Ngài thị tịch, Tống Vân vâng chiếu vua Hậu Ngụy đi sứ Ấn Độ  trên đường về, gặp Ngài tại Thông Lãnh, thấy Ngài tay xách một chiếc dép, một mình đi nhanh như bay.  Tống Vân hỏi:
- Thầy đi đâu ?
Ngài đáp:
- Về Ấn Độ
Ngài lại nói thêm:
- Chủ ông đã chán đời rồi.
Tống Vân ngẩn ngơ, từ giả Ngài về triều.  Đến triều thì vua Minh Đế đã băng, Hiếu Trang Đế lên ngôi.  Ông đem việc ấy tâu lại, vua ra lệnh mở cửa tháp, dở quan tài ra;  Quả nhiên là quan tài không, chỉ còn một chiếc dép.  Vua sắc đưa chiếc dép về thờ ở chùa Thiếu Lâm.  Đến đời Đường niên hiệu Khai Nguyên năm thứ 15 (728 sau kỷ nguyên chung), môn đồ lại dời chiếc dép về thờ ở chùa Hoa Nghiêm.  Đến nay không biết còn-mất và ở đâu.
Vua phong Ngài hiệu Viên Giác Thiền Sư, tháp hiệu Không Quán
Một số hình ảnh chùa Lý Hòa ngày 27/1/2014
Liên hệ với Admin QRCode

Không có nhận xét nào: