Huyện Bố Trạch có ba làng nổi
tiếng không chỉ trong lịch sử tỉnh Quảng Bình mà còn của cả nước đó là các
làng: Lý Hòa; Quy Đức; Cao Lao Hạ; chính điều đó ba làng được xếp vào thứ hạng
“ Tam danh hương” (“Lý – Quy – Cao”) sánh ngang hàng cùng với Bát danh hương:
Sơn – Hà Cảnh, Thổ - Văn, Võ, Cổ, Kim của các huyện Quảng Ninh – Lệ Thủy và
Quảng Trạch – Tuyên Hóa. Sự nổi danh của “Tam danh Hương” còn được xem là cái
xương sống của hai cánh chim văn hóa “Bát danh hương” trên đất Quảng Bình.
Làng Lý Hòa xưa, nay được gọi là
xã Hải Trạch, là một vùng đất, một làng quê nằm phía Nam dưới chân dãy núi Lệ
Đệ. Theo Lê Quý Đôn “Thôn Lý Hòa, châu Nam Bố chính, đất ấy là dư khí của núi
Lệ Đệ rũ xuống thành một rãi cát bằng, nổi cao, mở rộng, dân cư ở ngang bãi
trông về phía Nam”. Làng Lý Hòa ở trên một bán đảo bao quanh ba phía là nước
sông và biển, phía Bắc giáp với đèo Lý Hòa. Lý Hoa một vùng đất, một làng quê
nổi tiếng đẹp về cảnh quan, có núi, có biển, có sông. Vì vậy, năm 1993, Bộ văn
hóa đã có Quyết định công nhận: “khu danh thắng Lý Hòa” di sản thiên nhiên cấp
Quốc gia.
Với phong thủy như vậy đã tạo cho
làng Lý Hòa giàu có về kinh tế, đa dạng phong phú về văn hóa. Lý Hòa có dòng họ
khoa bảng nổi tiếng trong sử sách với những con người tài cao, trí rộng. Đây
chính là cội nguồn sức mạnh để các thế hệ người dân Lý Hòa vươn lên, vượt qua
khó khăn, quyết chí học hành để có vốn kiến thức giúp đời, giúp nước.
Cư dân làng Lý Hòa có nguồn gốc
từ làng Cương Gián, huyện Nghi Xuân, Hà Tỉnh, nơi có danh tướng Nguyễn Xí – một
trong những vị khai quốc công thần của nhà Lê di cư vào chọn vùng đất bên bờ
sông Thuận Cô, sau này gọi là sông Lý Hòa lập ấp, lập nghiệp. Vùng đất Lý Hòa
có hình thể tự như một con rồng bay lượn trên một biển nước lớn. Đầu rồng là
đèo Lý Hòa, mặt ngoảnh ra biển khơi, đôi hàm răng rồng là hàng trăm hòn đá lớn,
nhỏ được gọi là bãi Đá Nhảy chắn ngang những đợt sóng biển đâm ngang, tung bọt
trắng xóa. Từ bãi Đá Nhảy đi theo bờ biển vốn là con đường Hạ đạo thời xưa về
phía Nam gần đên đầu làng có một hòn núi đá “mồ côi” mọc lên giữa bãi cát trắng
còn gọi là hòn đá Bụt, ở đây có bãi đá ngầm còn gọi là Rạn Biển, chạy dài hàng
chục mét ra biển tạo nên một con đê bằng đá chắn ngang dòng hải lưu từ Vũng
Chùa – Đảo Yến về phía Nam. Tạo hóa sinh ra con đê biển giữ cho làng Lý Hòa
không bị biển xâm thực. Cửa sông Lý Hòa được xem là rốn rồng, mỗi khi trời yên
biển lặng “rồng” thảnh thơi bay lượn, “rốn rồng” được đẩy xa ra khỏi xóm ngoài
của làng, lúc đó không còn cảnh tàn phá của nước biển và lũ lụt từ thượng nguồn
sông đổ về. Trong những ngày bão tố, mưa to “rồng” cuộn mình uốn lượn, “rốn
rồng” cuộn về gần xóm ngoài, nước sông,
nước biển dâng cao cuốn phăng bãi cát cuối làng tạo nên cửa sông mới uy hiếp
cuộc sống của hàng trăm con người.
Là một vùng đất thuộc Chiêm Thành
xưa, nên làng có ba cái giếng của người Chăm và người Việt. Ở ngay trong khuôn
viên chùa Vĩnh Phước có một giếng nước do người Chăm đào có hình vuông, thành
giếng được lát bằng những phiến đá xanh, đáy lát bằng gỗ, nước giếng chùa rất
mát, trong và ngọt. Theo các nhà nghiên cứu lịch sử và địa chất cho biết, người
Chăm có rất nhiều kinh nghiệm trong việc chọn đất, tìm nguồn nước ngọt để đào
giếng, chính vì vậy dù giếng được đào gần hay xa sông, xa biển, nước giếng bao
giờ cũng ngọt và đủ cung cấp cho cư dân trong vùng. Ngoài giếng chùa, làng Lý
Hòa còn hai giếng hình tròn có đường kính hơn 2m đó là giếng Đình nằm sát đình
làng và giếng eo nằm ở xóm giữa, nơi hẹp nhất của làng. Giếng Đình và giếng Eo
được đào sau khi người Lý Hòa vào định cư; giếng nước được xây bằng gạch Bát
Tràng, đáy lát bằng gỗ, nước giếng có vị mặn do bị ảnh hưởng của nước biển và
nước sông thẩm thấu.
Với thế phong thủy, thiên thời
địa lợi nhân hòa đã tạo cho người dân Lý Hòa một: tâm thế, tâm lực, tâm trí
dũng cảm, ngoan cường, nhạy bén, linh hoạt, sáng tạo trong suy nghỉ và hành
động. Đây là hành trang cần thiết để con dân Lý Hòa đi đến mọi miền đất nước để
học tập, lao động giao thương từ đó về xây dựng cuộc sống, xây dựng quê hương
ngày càng phát triển.
Trải qua lịch sử gần 400 năm kiến
tạo và xây dựng quê hương, người Lý Hòa biết bảo tồn và tiếp thu có chọn lọc
các giá trị văn hóa tiêu biểu của hai dân tộc Việt – Chăm tạo nên một di sản văn hóa của làng biển vừa
đậm đà bản sắc văn hóa dân tộc Việt vừa
gìn giữ, bảo tồn được những nét văn hóa Chăm để làng Lý Hòa trở thành một trong
những địa phương lưu giữ được nhiều giá trị văn hóa Việt – Chăm trên đất Quảng
Bình. Người dân Lý Hòa đã xây dựng được một thiết chế văn hóa tiêu biểu như:
đình, chùa, đền , miếu và các di sản văn hóa phi vật thể mang đậm sắc thái văn
hóa làng biển miền Trung: Chèo Cạn, hát bài chòi, múa bông, bơi trải (đua
thuyền) trên sông , trên biển; lễ rước Thành hoàng làng, lễ giáng trần Thánh
mẫu thiên Y-A-Na – bà Chúa Ngọc,… tập tục thờ thần biển, thờ cá Ong,… và nhiều
phong tục tập quán khác: tiếng nói, nghề nghiệp, nhà cửa ẩm thực,… Trong những
di sản văn hóa đó, người Lý Hòa trân quý nhất là đình Lý Hòa, đây được xem là
một biểu tượng uy quyền của làng dưới thời phong kiến, nhưng giá trị hơn cả
đình làng là nơi lưu giữ những thông tin về sự hình thành làng xã, về các dòng
họ được thờ,…về những tập tục thờ tự, cúng tế, lễ nghi, những làn điệu hò Chèo
Cạn, hát bài chòi,…đây chính là cội nguồn sức mạnh tinh thần đối với mỗi ,thế
hệ người dân Lý Hòa từ xưa đến nay. Với những giá trị trên, năm 1993, đình Lý
Hòa đã được Bộ văn hóa công nhận xếp hàng di tích lịch sử văn hóa cấp Quốc gia.
Đền thờ thánh mẫu Thiên Y-A-Na-bà chúa ngọc, một di sản Chăm về thờ mẫu duy
nhất trên đất Quảng Bình được Việt hóa và cùng với đền thờ công chúa Liễu Hạnh
dưới chân dãy Hoành Sơn ( phía bắc sông Gianh) càng khẳng định giá trị văn hóa
tục thờ Mẫu của người Việt trên đất Quảng Bình. Là cư dân biển, người dân Lý
Hòa còn có tục thờ cá Ong, một vị cứu tinh đối với người dân chài trên biển. Có
thể nói, vùng đất Lý Hòa là nơi hội tụ nhiều giá trị văn hóa. Ít được một vùng
đất, một làng quê nào như Lý Hòa cùng lúc có được di sản văn hóa, , di sản
thiên nhiên cấp Quốc gia đó là đình Lý Hòa và khu Danh Thắng Lý Hòa và cũng có
ít vùng quê nào cùng lúc được thụ hưởng di sản văn hóa cấp Quốc gia: tục thờ cá
Ong, hai di sản văn hóa thế giới: tục thờ Mẫu và hát Bài Chòi.
Lý Hòa trong lịch sử thời phong
kiến có 12 dòng họ “thập nhị gia tiên”. Trong đó có 2 dòng họ lớn đó là dòng họ
Nguyễn Duy và họ Hồ được thờ tại đình làng. Họ nổi tiếng nhất là họ Nguyễn Duy,
trong thời nhà Nguyễn từ năm Minh Mạng thứ 10 (1822) mở khoa thi đầu tiên cho
đến khoa thi cuối cùng (1919), dòng họ Nguyễn Duy đã đóng góp cho đất nước 5 vị
tiến sĩ, phó bảng sánh ngang với dòng họ Nguyễn Đăng ở làng Phù Chánh ( Lệ Thủy). Đó là trường hợp
có một không hai trong lịch sử khoa cử Việt Nam trong thời phong kiến.
Theo gia phả dòng họ Nguyễn Duy
thì vào đời thứ 5 có cụ Nguyễn Duy Khâm là một quan ngự y nổi tiếng, chữa bệnh,
dạy học cho vua và các hoàng tử, công
chúa, nên khi cụ qua đời được truy tặng “Thị giả y học sỹ”. Cụ sinh được hai
người con trai là Nguyễn Duy Cần và Nguyễn Duy Đức cho ăn học tử tế.
Nguyễn Duy Cần sau đổi tên thành
Huân là người đỗ tiến sỹ và là người khai khoa đầu tiên của làng Lý Hòa, năm
1842 (đời vua Thiệu Trị thứ 2). Ông sinh
năm Đinh sửu (1817) đỗ cử nhân năm 25 tuổi (1841). Sau đỗ tiến sỹ, ông được vua
phong làm Giáo tập Tôn học đường, chuyên dạy con vua, chúa trong phủ Tôn Nhơn,
trực thuộc dưới quyền vua. Sau một thời gian, ông được cử sang chức Tế tửu Quốc
Tử Giám là trường đại học cao nhất trong thời phong kiến, chuyên đào tạo nhân
tài cho đất nước. Ông từng làm Thị giảng học sỹ ở Hàn Lâm Viện, đến 60 tuổi ông
được phong hàm Tham tri trước khi nghỉ hưu.
Con trai thứ 2 tên Nguyễn Duy Đức
tức Nguyễn Duy Miễn, đỗ cữ nhân năm 1878, đời vua Tự Đức thứ 31, được vua cử
làm Tế Tửu trường Quốc Tử Giám, sau đó ông cáo lão về hưu, chuyên dạy cho con
cháu học hành, ông Miễn có 5 người con đỗ đại khoa là:
-
Nguyễn Duy Thắng đỗ phó bảng khoa Mậu Tuất (1898) lúc
mới 27 tuổi, ông làm quan đến chức Tả trực kỳ chưởng ấn
-
Nguyễn Duy Tích vào năm 23 tuổi đỗ tiến sỹ, ông làm đến
chức Tham tri bộ Bình dưới thời vua Thành Thái.
-
Nguyễn Duy Phiên đỗ cử nhân Khoa Quý Mão (1903), đỗ
Hoàng Giáp năm Đinh Mùi đời vua Thành Thái thứ 19 lúc 23 tuổi.
-
Nguyễn Duy Thiệu đỗ phó bảng khoa Canh Tuất (1910) năm
25 tuổi, sau đỗ thụ hàm Thừa chi theo học Trường Hậu Bổ làm quan đến chức Thị
Lang.
-
Nguyễn Duy Đồng đỗ cử nhân, tuy không thi Tiến sỹ nhưng
học vấn không thua kém Tiến sỹ, ông ở nhà để phụ dưỡng cha mẹ.
Dòng họ Nguyễn Duy thật xứng đáng
“Giáo ngũ trứ danh câu xương”, một dòng họ có 5 vị đại khoa thật là hiếm có.
Sự hiếu học, đỗ đạt cao của các
vị đại khoa dòng họ Nguyễn Duy là nguồn khích lệ to lớn đối với bao thế hệ
người dân Lý Hòa. Vì vậy, bất luận trong hoàn cảnh nào, người Lý Hòa nhất là
người trẻ vẫn luôn theo đuổi sự học để trở thành những người đỗ đạt cao, tài
giỏi trên mọi lĩnh vực chính trị, quân sự, kinh tế, văn hóa, có nhiều đóng góp
xứng đáng trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước, quê hương.
Lý Hòa một vùng đất gắn liền với
biển, đất gắn liền với núi, nơi tụ khí, tụ nghĩa để từ đó hình thành nên một
làng quê văn vật với nguồn tài nguyên là các di sản văn hóa, di sản thiên
nhiên, đây là cội nguồn sức mạnh tinh thần, vật chất để chính từ đây mở hướng
đi mới trong việc khai thác các giá trị văn hóa di sản phục vụ việc phát triển
kinh tế - xã hội để xây dựng làng Lý Hòa ngày càng giàu, đẹp.
Biên soạn: Hồ Thị Vân
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét